Gồm 2 phương pháp in
Phương pháp hai pha (vải nền naptol-amin hoặc muối ổn định)
Phương pháp một pha (dùng hỗn hợp muối diazo ổn định + naptol). Các thuốc nhuộm sử dụng trong phương pháp một pha: rapidogen N, Pologen.
Công thức để hòa tan naptol và diazo tiến hành tương tự như trong in vải hoa bằng thuốc nhuộm trực tiếp.
Phương pháp in hai pha
Nguyên lý phản ứng hoá học của phương pháp này là sự kết hợp của hợp chất diazo của amin nhân thơm (hoặc hợp chất diazo; muối diazo đã được ổn định) với các chất naptol (nhân thơm), phản ứng xảy ra tương tự như được giới thiệu trong công nghệ nhuộm, vì vậy điều kiện nhiệt độ để diazo hoá và kết hợp cũng tuân thủ như . trong nhuộm.
- Trong in vải hoa có thể được tiến hành như sau:
- In hồ in chứa dung dịch diazo hóa lên nền vải đã được xử lý naptol.
- In hồ in chứa dung dịch naptol sau đó hiện màu trong bể chứa dung dịch diazo hóa.
- In hợp chất amin và axit hữu cơ lên nền vải đã được xử lý naptol + NaNO2 ( diazo hoá và kết hợp xảy ra đồng thời).
- In hồ in và NaNO2, sau đó xử lý trong bể chứa dung dịch amin axit.
- In hồ in chứa dung dịch diazo hoá lên nền vải đã được xử lý naptol: đây là phương pháp thông dụng nhất.
- Việc nhuộm nền naptol được tiến hành như trong nhuộm theo phương pháp liên tục, chỉ có điều là trong bể nhuộm không chó formandehyt, vì sẽ khó giặt sạch nền trắng sau khi in. Vải được ngấm ép dung dịch nhuộm nền sau đó sấy khô.
Quá trình diazo hoá được tiến hành như trong nhuộm lớp thuốc này chỉ khác là phải điều chỉnh độ đặc của hồ cho phù hợp với in vải hoa. pH được điều chỉnh trước lúc sử dụng (để đảm bảo cho hồ in được bền). Thường người ta sử dụng hồ tinh bột, hoặc tragant – tinh bột hoặc tinh bột biến tính.
Không được sử dụng hồ in có tính khử (thí dụ như Brit-gum) vì nó sẽ làm phân hủy dung dịch điảzo hóa, hoặc dung dịch hồ in sinh nhiều bọt do thiết bị pha chế hồ tạo ra cũng ảnh hưởng đến độ phân hủy dung dịch diazo hoá.
Vải khi sau in - sấy khô và phải được giặt sạch naptol còn dư.. Trong thực tế nhiều khi nền trắng bị hơi ố vàng (mặc dù đã giặt rất kỹ), trong trường hợp đó cho axit axetic vào bể giặt, axit này sẽ giúp chuyển naptolat thành naptol (dễ giặt sạch) mang màu nhạt hơn.
In hồ in chứa dung dịch naptol sau đó hiện màu trong bể chứa dung dịch diazo hóa: ở phương pháp này ta in hồ in chứa dung dịch naptol lên nền vải trắng sau đó sấy khô và hiện màu trong bể chứa dung dịch amin đã được diazo hóa. Phương pháp này phù hợp khi in vải có mẫu hoa nhỏ (nền trắng lớn) vì như vậy không phải mất công giặt sạch phần naptol ở nền trắng. Sau hiện màu vải qua giai đoạn chạy tự do trong không khí - sau đó giặt nước - giặt xà phòng. Ở bể giặt đầu tiên bổ sung 5-10g/l natri bisunfit để loại bỏ dung dịch diazo thừa. Nhiệt độ bể giặt duy trì 80-90°C. Phương pháp in kiểu này không sử dụng cho một số amin dễ dây màu lên nền trắng (thí dụ amin hoặc muối cho màu xanh nước biển, màu đen).
Phương pháp in một pha
Để cố gắng đơn giản hoá công nghệ in vải hoa bằng các lớp thuốc nhuộm azo không tan, người ta cố gắng sản xuất nhiều dạng hợp chất diazo ổn định với naptol trong môi trường hồ in kiềm tính (khi in xong vẫn đang ổn định) chỉ đến giai đoạn gắn màu ở trong điều kiện môi trường axit mới bắt đầu xảy ra phản ứng kết hợp và lúc đó mới tạo thành thuốc nhuộm azo không tan trên vải. Trong sự phát triển đó được áp dụng nhiều nhất là dạng thuốc nhuộm có tên gọi Rapidogen hiện màu trong môi trường axit.
Trong quá trình điều hồ, người ta sử dụng thêm hợp chất có khả năng giải phóng axit thí dụ đimetylamin -hidroclorit hoặc chất dễ bị bốc hơi dietyhidroxyetylamin và trong quá trình phản ứng chúng thay thế phần kiềm dùng để hòa tan thuốc nhuộm Rapidogen. Các chất này trong quá trình chưng hấp sẽ bị bốc hơi hoặc phân hủy. Bằng cách đó chúng điều chỉnh được điều kiện thích hợp cho phản ứng kết hợp xảy ra.
Hồ in thường có màu rất nhạt nên khi in rất “khó nhìn màu vì vậy để thuận tiện người ta thường cho một ít thuốc nhuộm axit, tốt nhất là cùng gam màu với thuốc nhuộm azo cần in vải hoa.
Loại hồ in nhóm thuốc nhuộm này độ ổn định cũng chỉ có giới hạn, thông thường chỉ để lưu được khoảng từ 2 đến 12 ngày.
Mẫu đã được in, sấy khô xong trước khi hiện màu có thể để lưu kho được thời gian khá dài. " Quá trình hiện màu có thể được tiến hành theo các giải pháp sau:
- Chưng hấp ở 102–104°C, thời gian 5 - 10 phút trong điều kiện môi trường trung tính.
- Chưng hấp trong điều kiện axit ở 100°C, thời gian 3 – 5 phút (yêu cầu hòm chưng chịu được điều kiện axit).
- Hiện màu trong bể axit ở nhiệt độ 70-90°c thời gian 10–30 giây). Phương pháp này chỉ phù hợp với một số thuốc nhuộm và nói chung cho kết quả ở mức trung bình.
- Gia nhiệt bằng không khí nóng ở | 140 – 160 °C thời gian 3–5 phút. . Sau khi hiện màu xong vải được giặt lạnh - giặt nóng - xà phòng - giặt lạnh – sấy.